Không cần đến phòng thí nghiệm hiện đại hay những trang thiết bị tối tân mới có thể nảy ra ý tưởng vĩ đại. Marie Curie trở thành nữ bác học lừng danh từ căn phòng ẩm thấp và tồi tàn nhất mà một nhà khoa học có thể tưởng tượng.
Marie Sklodowska sinh năm 1867 tại thủ đô Warszawa (Ba Lan). Bà và Pierre Curie phát hiện ra hai nguyên tố mới là polonium (đặt tên theo quê hương Ba Lan của Marie) và radium, tuy nhiên khoáng vật pitchblende (có chứa urani) mà họ phân tích chứa quá ít lượng radium. Họ cần môi trường làm việc phù hợp để lọc nguyên tố mới ra khỏi khoáng vật.
Đại học Paris (Pháp), nơi Pierre làm việc có một nhà kho giải phẫu cũ kỹ bị bỏ hoang. Người ta không muốn sử dụng nó nữa vì không thích hợp để bỏ tử thi trong đó, nhưng hai nhà khoa học lại nhìn thấy đây là phòng thí nghiệm lý tưởng.
Một nhà khoa học từng ghé thăm phòng thí nghiệm của Pierre mô tả nó như sau: “Đó là sự pha trộn giữa một chuồng ngựa và một hầm chứa khoai tây. Nếu không nhìn thấy bàn làm việc với các thiết bị khoa học, tôi đã nghĩ đó là một trò đùa”.
Pierre tìm thấy ở Marie tình yêu khoa học nhiều không kém mình và đó chính là người phụ nữ trong mơ của ông. Trong bức thư hiếm hoi gửi Marie (họ hầu như không bao giờ cách xa nhau), ông đã viết lời cầu hôn chân thành: “Đó sẽ là một điều tuyệt đẹp mà anh gần như không dám tin, rằng chúng ta sẽ cùng chia sẻ một cuộc sống như trong mơ: giấc mơ của em dành cho quê hương, giấc mơ của chúng ta dành cho nhân loại và giấc mơ của chúng ta đối với khoa học”.
Sau khi trở thành vợ chồng, Pierre bị cuốn hút bởi những nghiên cứu của Marie về phóng xạ. Ông từ bỏ công việc nghiên cứu tinh thể của mình để giúp đỡ bà. Với vật chất thiếu thốn và tiền bạc không dư dả, họ làm việc trong nhà kho bằng gỗ dột nát, ẩm mục, lạnh lẽo.
Trong suốt 4 năm từ 1898 đến 1902, Marie làm đi làm lại những thí nghiệm nhằm tách tất cả yếu tố khác nhau trong quặng. Bà không nề hà khuấy khối chất đang sôi một cách nặng nhọc. Nỗ lực của bà đem lại kết quả khi cả hai lọc được 0,1 gram radium từ một tấn khoáng vật pitchblende. Đó là việc mò kim đáy bể và Marie chứng minh mình làm được.
Khi giải Nobel Vật lí năm 1903 được xác định trao cho công trình nghiên cứu về hiện tượng phóng xạ của vợ chồng Marie Curie, ban đầu Marie không được công nhận. Ủy ban Nobel từng thảo luận với nhau về điều này: “Marie chỉ là người vợ thôi, chắc chắn không có đóng góp gì cả. Pierre là người thực hiện tất cả công việc”. Giải thưởng chỉ được trao cho cả hai sau khi Pierre lên tiếng đòi lại danh dự cho vợ.
Marie Curie đưa ra câu trả lời xác đáng cho những người đánh giá sai về mình bằng giải Nobel Hóa học năm 1911. Bà trở thành người đầu tiên giành chiến thắng hai lần ở hai lĩnh vực khác nhau. Không chỉ thế, con gái họ là Iréne Joliot-Curie tiếp nối truyền thống gia đình bằng một giải Nobel Hóa học năm 1935.
Vào thời điểm đó, ông bà Curie không lường trước những nguy hiểm rình rập về sức khỏe khi làm việc với chất phóng xạ. Cả hai đều bị bỏng và ngộ độc phóng xạ. Pierre thậm chí còn cố ý làm mình bỏng phóng xạ để theo dõi các hiệu ứng. Cho đến ngày nay, giấy tờ và vật dụng cá nhân của Marie vẫn còn nhiễm phóng xạ cao.
Tác hại của chất phóng xạ khiến Marie không chống chọi nổi bệnh tật ở tuổi 66. Pierre thậm chí còn ra đi sớm hơn bởi một tai nạn bất ngờ năm 1906. Ông bị một chiếc xe ngựa kéo đè chết khi đang đi trên đường. Marie nói về nỗi mất mát: “Không thể diễn tả được nỗi đau tận sâu thẳm đã mang đến khủng hoảng cho cuộc đời tôi như thế nào khi mất đi người đồng hành tốt nhất và người bạn thân thiết nhất. Tôi cảm giác không thể đối mặt với tương lai. Tôi sẽ không quên được, nhưng như chồng tôi từng nói, tôi phải tiếp tục công việc của mình bất kể điều gì xảy ra”.
Và Marie đã tiếp tục con đường khoa học. Suốt phần đời còn lại, bà cống hiến hết mình cho các nghiên cứu phóng xạ. Bà thành lập Viện Radium, đi tiên phong trong việc sử dụng X-quang và xạ trị để chống lại căn bệnh ung thư. Không chỉ thế, trong Thế chiến thứ nhất, Marie thiết kế và xây dựng hơn 200 thiết bị X-quang lưu động giúp bác sĩ phẫu thuật cho hơn một triệu binh lính bị thương.
Dù đã trải qua cuộc đời ý nghĩa với những đóng góp to lớn cho khoa học, những năm tháng đầu tiên cùng Pierre xây dựng giấc mơ trong nhà kho bỏ hoang là thời gian hạnh phúc và sáng tạo nhất của Marie Curie. Địa điểm và điều kiện làm việc không quyết định kết quả. Cũng như Albert Einstein nảy ra nhiều ý tưởng tốt nhất khi làm nhân viên ở văn phòng sáng chế tại Thụy Sĩ, những khoảnh khắc đẹp nhất trong sự nghiệp của Marie Curie diễn ra ở căn phòng dột nát, tồi tàn nhất mà một nhà khoa học có thể tưởng tượng.
Nữ bác học lừng danh mọi thời đại này chứng minh một người thành công không cần đến phòng thí nghiệm hiện đại, phòng thu lớn hay những trang thiết bị tối tân. Tất cả những gì họ cần là sự tò mò trước những điều mới lạ, một mục đích rõ ràng, sự cống hiến không ngừng nghỉ và tốt hơn hết, có một người đồng hành cùng hướng đến những điều tốt đẹp nhất trong công việc.
nguồn: vnexpress.net